QUYỀN ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
Ngày đăng: 27/05/2022 00:00
Ngày đăng: 27/05/2022 00:00
Nếu như trước đây, người lao động muốn thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì phải đáp ứng quy định về điều kiện "phải có lý do", thì kể từ ngày 01/01/2021, theo quy định tại Điều 35 Bộ Luật Lao động năm 2019, người lao động có quyền chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần lý do, chỉ cần tuân thủ về thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động, cụ thể:
- Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn.
- Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng.
- Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng.
- Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo Điều 7 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động.
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp người lao động còn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước, đó là:
- Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động quy định tại Điều 29 Bộ Luật Lao động năm 2019.
- Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày; nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.
- Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động.
- Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc.
- Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi.
- Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ Luật Lao động năm 2019, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
- Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực về công việc, địa điểm làm việc, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn, vệ sinh lao động, tiền lương, hình thức trả lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quy định về bảo vệ bí mật kinh doanh, bảo vệ bí mật công nghệ và vấn đề khác liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động mà người lao động yêu cầu, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.
Có thể thấy, với quy định này, người lao động có quyền được tự do và chủ động hơn trong việc lựa chọn việc làm, hướng tới việc làm tốt hơn, nâng cao thu nhập và phòng chống cưỡng bức lao động; đồng thời tạo động lực thúc đẩy người sử dụng quan tâm cải thiện điều kiện lao động, môi trường làm việc và có các chế độ đãi ngộ để "thu hút" và "giữ chân" người lao động gắn bó với doanh nghiệp.
QUỐC DIỄN
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0